Tư Liệu Dành Cho HDV

Tư Liệu Dành Cho HDV Tài Liệu Dành Cho HDV
Tư Liệu Hồ Chí Minh . Tư Liệu về các điểm du lịch , di tích …

03/06/2025

Cần 1 HDV đi city tour Hà Nội ngày 29/6
Đón khách Hà Nội
Chỉ đi mỗi điểm roayl city thôi nhé
Yêu cầu : đã đi dẫn người lớn và có kinh nghiệm đoàn đông nhé

31/05/2025

Bộ Tư lệnh Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh thông báo để các cơ quan, tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội, nhân dân và người nước ngoài biết:
“Thời gian tạm ngừng tổ chức lễ viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh để triển khai Kế hoạch tu bổ định kỳ Công trình Lăng bắt đầu từ ngày 02/6/2025 và kết thúc ngày 31/7/2025. Từ ngày 02/8/2025, Bộ Tư lệnh Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục tổ chức lễ viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh theo kế hoạch thường xuyên”.
Trân trọng thông báo!
Nguồn : A Quang

21/05/2025

Các bạn biét nhà xe nào ở ninh bình và hạ long chạy tour k .. nếu có cho mình xin sdt và tên nhà xe vs ạ

02/05/2025

Lai lịch 18 vị La Hán là đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni

“Thập bát La Hán” là chỉ 18 vị La Hán trong Phật giáo ở thế gian hộ Pháp, vốn đều là đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật Thích Ca Mâu Ni vì để Phật Pháp có thể được lưu truyền cho hậu thế, khiến chúng sinh có cơ duyên nghe Pháp nên đã căn dặn các vị La Hán ở lại thế gian để hoằng dương Phật Pháp, làm lợi cho chúng sinh.

Có rất nhiều thuyết về các vị La Hán. Vào triều nhà Đường chủ yếu lưu hành thuyết về 16 vị La Hán. Đến thời Đường mạt cho đến đầu nhà Thanh, khi người đời tạc tượng 16 vị La Hán, xuất phát từ lòng tôn kính nên đã đem Khánh Hữu tôn giả và đại sư Huyền Trang thêm vào thành 18 vị. Nhưng vào thời Càn Long, Hoàng đế đã xác định vị La Hán thứ 17 và 18 là La Hán Hàng Long và La Hán Phục Hổ. Tất nhiên còn có nhiều thuyết khác, không hoàn toàn cố định. Dưới đây là lai lịch của 18 vị La Hán được nhiều người biết đến:

1. Tôn giả Bạt La Đọa
Ông vốn là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Đà Diên. Sau khi xuất gia, ông thường cưỡi hươu về cung khuyên bảo quốc vương xuất gia. Vì vậy, ông được người đời gọi tên là “Tọa Lộc La Hán”. Sau này quốc vương nghe ông thoái vị nhường ngôi cho Thái tử và đi tu.

2. Tôn giả Già Phạt Tha
Ông nguyên là một nhà hùng biện của Ấn Độ cổ đại.

Tương truyền có người từng hỏi ông: “Thế nào là vui?”

Ông giải thích rằng: “Từ thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác, khứu giác mà cảm nhận được vị của niềm vui.”

Người ta lại hỏi ông: “Thế nào là khánh (mừng)?”

Ông trả lời rằng: “Không do tai mắt mũi miệng tay mà cảm thấy vui thì đó là khánh, ví dụ như thành tâm hướng Phật, tâm cảm nhận thấy Phật thì vui.”

Cho nên, người đời gọi ông là “Hỉ Khánh La Hán”.

3. Tôn giả Nặc Già Bạt Lý Đà
Ông là một vị hòa thượng hóa duyên. Phương pháp hóa duyên của ông không giống người khác mà là ông giơ bát lên cao để hướng về người xin ăn. Sau này thế nhân gọi ông là “Cử Bát La Hán”.

4. Tôn giả Tô Tần Đà
Ông là vị đệ tử cuối cùng của Phật Thích Ca Mâu Ni. Tháp là tượng trưng cho Phật, vì để tưởng niệm mình đã đi theo Phật nên ông tự tạo ra một cái tháp và mang theo bên mình. Vì vậy, người đời sau này gọi ông là “Thác Tháp La Hán”.

5. Tôn giả Nặc Cự La
Vị La Hán này vốn là một võ sĩ. Sau khi xuất gia, Sư phụ vì muốn ông vứt bỏ tính cách lỗ mãng khi xưa nên bắt ông ngồi tĩnh tọa. Khi ông ngồi tĩnh tọa liền hiện ra thể trạng đại lực sĩ, đây là lý do người đời sau gọi ông là “Tĩnh Tọa La Hán”.

6. Tôn giả Bạt Đà La
Vị La Hán này vốn là một người phục vụ việc ăn uống và tắm rửa của Phật Tổ. Mẹ của ông sinh ông ở dưới gốc cây Bạt Đà La – một loài cây quý hiếm của Ấn Độ, nên đặt tên ông là Bạt Đà La. Sau này ông đi thuyền vượt sông vượt biển để truyền bá Phật giáo nên có tên là “Quá Giang La Hán”.

7. Tôn giả Già Lực Già
Ông vốn là một vị có khả năng thuần phục voi. Năng lực và khả năng làm việc của voi lớn lại có thể nhìn xa. Người đời gọi ông là “Kỵ Tượng La Hán”.

8. Tôn giả Phật Đà La
Ông nguyên là một thợ săn dũng mãnh, ngay cả hổ và sư tử cũng bị ông săn bắt. Sau khi xuất gia ông từ bỏ sát sinh nên khi được chứng quả La Hán, có hai con sư tử đi đến bên ông cảm kích ông đã buông bỏ đao kiếm. Sau khi thành đạo, ông đã đưa hai con sư tử bên mình nên mọi người gọi ông là “Tiếu Sư La Hán”.

9. Tôn giả Tuất Bác Già
Ông vốn là Thái tử Trung Thiên Trúc. Khi người em của ông muốn tranh đoạt ngôi vua với ông, ông nói: “Trong tâm ta chỉ có Phật, chứ không có Vương vị.” Người em thấy tâm ông có Phật nên không làm loạn nữa. Cũng vì thế mà người đời gọi ông là “Khai Tâm La Hán”.

10. Tôn giả Bạn Nặc Già
Ông được sinh ra ở ven đường. Mỗi khi ngồi đả tọa xong, ông liền giơ hai tay lên đầu và thở dài một hơi, nên sau này được người đời gọi là “Thám Thủ La Hán”.

11. Tôn giả La Hầu La
Ông là người con trai của Phật Thích Ca Mâu Ni, sau theo cha đi xuất gia làm một trong 10 đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. Ông được người đời gọi là “Trầm Tư La Hán”.

12. Tôn giả Na Già Tê
Ông vốn là một nhà lý luận. Vì luận “nhĩ căn” mà nổi tiếng thế nhân. Cái gọi là “nhĩ căn” chính là một trong số lục căn bao gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Lục căn là khí quan chủ yếu để chúng ta nhận thức thế giới. Muốn tu Phật, lục căn phải thanh tịnh. Trong lục căn thì nhĩ căn sinh ra nhận thức. Cho nên nhĩ căn thanh tịnh là quan trọng nhất. Bởi vì vị La hán này có nhĩ căn thanh tịnh nhất nên khi tạc tượng trong Phật giáo thường đắp hình dáng của ông thành hình nhĩ căn. Vì vậy, người đời gọi ông là “Oạt Nhĩ La Hán”.

13. Tôn giả Nhân Già Đà
Ông vốn là người bắt rắn ở Ấn Độ cổ. Khi đi bắt rắn trong núi ông thường mang túi to để tránh cho người đi đường bị rắn cắn. Sau đó ông lại nhổ bỏ răng độc của chúng đi và thả vào rừng núi. Bởi vì bên thân ông luôn có chiếc túi nên người đời gọi ông là “Bố Đại La Hán”.

14. Tôn giả Phạt Na Ba Tư
Ông vốn là một người buôn bán. Ngày ông ra đời trời mưa rất to. Lá cây chuối ở hậu viện bị mưa rơi xuống kêu sột soạt nên mẹ ông đặt ông là Phạt Na Ba Tư (tiếng Phạn có nghĩa là mưa). Sau này khi ông xuất gia thường hay đứng dưới cây chuối dụng công nên có tên là “Ba Tiêu La Hán”.

15. Tôn giả A Thị Đa
Khi sinh ra ông đã có lông mày trắng dài rủ xuống, bởi kiếp trước ông chính là một hòa thượng tu hành, tu hành đến già, tóc đều rụng hết chỉ còn hai cọng lông mày dài. Sau khi chết đầu thai chuyển thế, cọng lông mày này cũng được mang theo. Cha mẹ ông biết rõ ông là người tu hành cho nên lại đưa ông đi xuất gia. Cuối cùng ông tu thành La Hán và được thế nhân gọi là “Trường Mi La Hán”.

16. Tôn giả Hán Đồ Bạn Trá Già
Sau khi xuất gia, mỗi lần ông đi hóa duyên đều dùng nắm tay gõ cửa từng nhà để họ ra bố thí. Phật cho rằng cách của ông không ổn nên đã ban cho ông một cây gậy tích trượng. Lúc ông hóa duyên thì dùng cây gậy này rung lắc trước cửa, chủ nhà nghe thấy thanh âm này sẽ vui mừng mà ra cửa bố thí. Vì vậy ông được gọi là “Khán Môn La Hán”.

17. Tôn giả Vi Khánh Hữu
Tương truyền thời Ẩn Độ cổ bắt đầu ghi chép kinh Phật, một ác ma đã xúi giục, kích động người dân sát hại tăng nhân, hủy tượng Phật và đem kinh Phật cướp đi. Long Vương đã dùng nước bao phủ nơi đó và đem kinh Phật về long cung. Khánh Hữu hàng phục Long Vương, thu hồi kinh Phật. Cho nên, người đời gọi ông là “Hàng Long La Hán”.

18. Tôn giả Vi Tân Đầu Lô
Ông vốn là một tăng nhân. Bên ngoài chùa của ông thường có hổ gầm nên ông cho rằng hổ đói bụng. Thế là, ông liền đem phần cơm của mình cho hổ ăn. Dần dà, hổ bị tấm lòng lương thiện của ông thu phục. Đây cũng là lý do mà mọi người gọi ông là “Phục Hổ La Hán”.

26/04/2025

Trong đây có bạn nào trống 29/4 mà là hdv tiếng anh k ạ .. nếu có ai hdv tiếng anh trống ngày đó giúp mình một việc với .. không phải đi tour ạ .. Nên bạn nào trống cmt or ib qua nick này nhé Xuân Trường
mình sẽ nói cụ thể cho ạ
Lưu ý : không phải đi tour hay gì cả nên ai giúp dc giúp mình nhé . Thanks cả nhà

23/04/2025

Góc Chia sẽ và Nỗi Niềm của ace Hdv mùa hè năm 2025
Ad thấy nhiều ace hdv và kể cả ad cũng vậy thấy năm nay mùa hè rất trầm không giống như mọi năm .. Có người thì bị huỷ lịch , rời lịch , có khi cũng chưa nhận lịch .. Riêng ad cũng như bao ace khác cũng bị huỷ lịch rồi rời lịch nên năm nay ad và nhiều ace khác đều trống cuối tháng 4, cũng như dịp lễ 30/4-/5 trở đi .. Khách sạn thì cháy phòng , còn hdv , lái xe , cty du lịch thì lại k thấy lịch đâu cả … Vì một số lý do năm nay các tỉnh phải xác nhập và tinh gọn bộ máy lại và năm nay lại 2 năm nhuận tháng 6 nữa .. Nên chắc nhiều ace hdv và ad cũng trống lịch khá nhiều và không biết lấy tiền đâu trang trải , Nhưng khách quan thì ad nghỉ chắc mùa hè bận rộn nhất chắc rơi vào giữa tháng 6 trở đi thôi à
Ace có cùng quan điểm hay có ý kiến gì thì bình luận phía dưới nhé
Trang này vừa là chia sẽ tư liệu cũng như chia sẽ tìm hdv cho cty ạ

23/04/2025

Tìm Hiểu 500 Vị La Hán

22/04/2025

Bài thuyết minh tất tần tật khi cho khách tham quan Mộ Bác Giáp

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng đầu tiên, Bí thư Quân ủy đầu tiên, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đầu tiên và duy nhất cho đến nay; người Cộng sản kiên trung, mẫu mực, một thiên tài quân sự đã hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc, đã từ trần hồi 18 giờ 09 phút, ngày 04 tháng 10 năm 2013 (tức ngày 30 tháng 8 năm Quý Tỵ), tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108; hưởng thọ 103 tuổi.

Nhằm bày tỏ tình cảm yêu mến, kính trọng của tuổi trẻ đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hôm nay đoàn mình hành trình xa sôi đến đây để dâng lên người một tấm lòng biết ơn sâu sắc. Có lẽ sau mất mát lớn lao của dân tộc việt nam vì đã phải mất đi người Cha già kính yêu của dân tộc, lần nữa sau Bác hồ kính yêu của chúng ta,lần thứ hai toàn thể non sông mình lại đau đớn đi một cây "Đại Thụ" nữa

Thưa quý đoàn, Bác Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911, tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông xuất thân trong một gia đình nho giáo, với cụ thân sinh là ông Võ Quang Khiêm - một nhà nho đức độ, và mẹ là bà Nguyễn Thị Kiên. Gia đình 7 anh chị em, nhưng người anh cả và chị cả mất sớm nên còn lại năm, 3 người con gái và 2 người con trai là Võ Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho, sau này là Thứ trưởng Bộ Giáo dục. Gia đình cụ Nghiêm thuộc diện nghèo trong làng, quanh năm phải vay nợ nặng lãi của các nhà giàu như nhà Khóa Uy, một Hoa kiều giàu có ở làng Tuy Lộc kề bên. Võ Nguyên Giáp đã có lần theo mẹ chèo thuyền chở thóc đi trả nợ.
Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng những câu chuyện đêm đêm mẹ kể cho cậu nghe về tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu và dân chúng đứng lên chống Pháp bảo vệ non sông, còn cha nói về phong trào đánh Pháp qua bài vè “Thất thủ kinh đô” đầy cảm động, đã gieo vào lòng cậu bé những ấn tượng không bao giờ phai mờ, góp phần nuôi dưỡng ý chí cho sự nghiệp cách mạng sau này.

Cha ông là một nhà Nho nên dạy dỗ con cái rất nghiêm cẩn trong sinh hoạt gia đình và học hành, giữ gìn nề nếp gia phong của đạo Khổng. Ông khuyên dạy con: "Chữ Nho là chữ của Thánh hiền, là nho sinh, các con không được nghịch ngợm, dẫm đạp lên sách vở chữ Nho". Ông dạy đám học trò cùng hai con ông: Tạm thiện tự, Ngũ thiên tự và cả Ấu học tân thư.
Võ Nguyên Giáp học chữ Nho không nhiều nhưng những đạo lý học được trong các sách của Thánh hiền Nho gia, đặc biệt là Ấu học tân thư, đã có ảnh hưởng sâu sắc trong cả cuộc đời ông. Học xong lớp 3 Võ Nguyên Giáp phải xuống thị xã Đồng Hới học tiếp. Đồng Hới khi đó thuộc tỉnh lỵ Quảng Bình, cách làng An Xá của cậu trên 20 cây số, nằm bên bờ Nhật Lệ trong xanh. Những năm học ở thị xã Đồng Hới, Võ Nguyên Giáp ở trọ nhà người quen của cụ Nghiêm.
Cậu được gia chủ quý mến coi như con cháu trong nhà, không lấy tiền trọ, cậu được học với nhà sư phạm có tiếng, thầy giáo Đào Duy Anh. Hai năm học ở tiểu học Đồng Hới, hàng tháng cậu luôn đứng đầu lớp. Tại kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học, cậu đỗ đầu toàn tỉnh. Về làng cậu được dân làng nể trọng, gia đình rất tự hào về cậu. Năm 1925, Võ Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng Bình để vào Huế ôn thi vào trường Quốc học Huế (ông đỗ thứ hai loại khá).

Thật ra, điểm yên nghỉ của Đại tướng đã được gia đình chọn lựa từ lâu. Khu vực Vũng Chùa - Đảo Yến cũng là một huyệt đẹp hội tụ nhiều sinh khí đã được biết từ lâu. Dân xã Quảng Đông coi đây là một nơi thiêng liêng chứa đựng những điều thần bí.

Ông Phạm Xuân Hương, một bô lão trong xã kể lại chuyện xưa được lưu truyền trong nhân dân. Đó là câu chuyện một người Tàu biết đây là khu mộ huyệt đại cát, nếu an táng cha mình vào đây, con cháu sẽ phát tài, hưng vượng, liền đem hài cốt cha mình đến đây chôn trộm. Lúc đó, cả khu vực còn là rừng rậm. Anh ta chờ lúc giữa trưa mới thuê người địa phương đưa vào rừng. Thuyền vừa đỗ dưới bãi, định bước lên bờ thì bỗng trong rừng xuất hiện một đôi hổ, một con đen, một con trắng nhảy ra gầm vang đe dọa. Anh dẫn đường vội vàng đẩy thuyền chạy về.

Nhưng anh người Tàu vẫn không đành, anh ta mượn một thầy phù thủy đi cùng lần nữa. Lần này nghe như sợ thầy phù thủy, không thấy hổ ra dọa nữa. Trèo lên đến miếng đất bằng trên sườn núi, anh ta vội vàng đào mộ rồi đặt hài cốt cha mình xuống, nhưng lạ kỳ, hài cốt đặt xuống đáy hố thì tự nhiên đất lại đùn lên, đẩy gói hài cốt trở lại mặt đất. Thầy phù thủy bày đàn, bấm độn triệu thỉnh thổ địa lên hỏi, thổ địa trả lời: Đây là huyệt mộ đại cát, nhưng không dành cho người này. Chôn xuống sẽ bị đào lên. Anh người Tàu sợ quá, vội mang hài cốt cha mình về Tàu.

Trong sách nêu rõ vịnh La Sơn được bao bọc bởi những ngọn núi như những bức tường thành, phía đất liền là dãy Hoành Sơn “thế như rồng cuốn hổ ngồi, trùng trùng điệp điệp lan ra tận biển”, với đỉnh Mũi Rồng che chắn phía tây - bắc, ở phía đông có nhiều đảo nhỏ (dân gian gọi là hòn)...

TS Dũng cho biết quần thể danh thắng này gắn liền với rất nhiều truyền thuyết dân gian, như việc người dân vùng này không dám chặt cây chò trắng, vì đây là loại cây tương truyền được long vương dùng xây thủy cung dưới biển. Mà long vương từng nổi sóng lớn giúp dân nhấn chìm chiến thuyền của quân Chiêm khi đến quấy phá dân làng thời Đại Việt. Dân gian còn truyền miệng chuyện năm vua Lê Thánh Tông xuất thủy quân đánh Chiêm Thành, đã dừng lại nơi đây lập đàn xin thần linh phù hộ thắng giặc và chúng sinh an lành. Sau đại thắng, vua lại trở về lập đàn cáo cùng trời đất tại đây.

VỀ MẶT PHONG THỦY

Thuật phong thủy chỉ phương pháp tìm kiếm và chọn lựa nơi trú ngụ hoặc mai táng cát tường phú quý, phúc thọ bình yên. Giống như mọi ngành khoa học kĩ thuật cổ truyền khác ở Á Đông, thuật phong thủy cũng dựa vào dịch lí, thuyết âm dương, ngũ hành. Theo các quan niệm cổ truyền, long mạch là những dòng khí mạch chạy trong đất (giống như mạch máu trong cơ thể), nhấp nhô, uốn lượn theo thế núi sông như rồng. Điểm khởi đầu của mạch là nơi sinh khí bắt đầu phát sinh, điểm kết thúc của mạch là nơi sinh khí ngưng tụ. Tại nơi tập kết khí mạch của núi mà xây huyệt mộ sẽ mang lại nhiều điều tốt lành.

Sách Táng thư viết: “Mai táng phải chọn nơi có sinh khí. Kinh viết: Khí gặp gió (phong) ắt tán, gặp nước (thủy) ngăn thì dừng. Cổ nhân làm sao cho khí tụ chứ không tán, nước chảy có chỗ dừng”. Do vậy mà có tên là “phong thủy”. Nơi khí tụ là huyệt cát, nơi khí tán là huyệt hung. Huyệt cát phải có thế đứng huyền vũ, nghĩa là lưng dựa vào miền đất cao, hay nhất là cuối dãy núi lớn, trước mặt có khoảng trống, thấp, tốt nhất có dòng nước chảy, bên trái tả thanh long nghĩa là có dãy núi cao tỏa ra như hai cánh tay che bên trái huyệt đất, có hữu bạch hổ, nghĩa là bên phải cũng có một dãy núi, hoặc đất cao che bên trái huyệt đất, có chu tước, nghĩa là ngoài vùng nước có một miền đất cao như cái bình phong chắn gió thổi vào huyệt đất.

Cuốn Táng Kinh viết: “Hình ngăn khí tụ, hóa sinh vạn vật là đất thượng đẳng”, tức là chân huyệt. Nếu không có hình tốt tức thế đất không ngăn được khí. Khí không tụ lại được thì an táng vô nghĩa. Nhưng đất có hình rồi cũng phải có thế. Thế đất cát thì huyệt sẽ cát; huyệt cát thì nhân sẽ cát. Thông thường, an táng ở trên thế đất phình. Táng kinh có viết: Thế đất có bình phong (đằng sau huyệt mộ có đất hoặc núi cao như bức bình phong để dựa, được che chắn) chôn đúng phép, vương hầu nổi lên. Thế đất như tổ yến (tròn, vuông, cân đối) chôn đúng cách, được chia đất phong. Thế đất như rìu kép (tròn, vuông, cân đối, phẳng phiu) mộ huyệt có thể giàu có.

HUYỆT ĐẠI CÁT

Vũng Chùa - Đảo Yến nằm cách Đèo Ngang (ranh giới giữa 2 tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh) khoảng 7 km. Người dân địa phương từ lâu vẫn gọi đây là thế đất rồng cuộn hổ ngồi, nơi dãy Hoành Sơn đâm từ dãy Trường Sơn ra biển lớn. Địa điểm an táng Đại tướng là lưng chừng triền núi phía Nam mũi Rồng, cách ngọn mũi Rồng khoảng 1km. Theo anh Phan Ngọc Trang - một người dân địa phương, trong khuôn viên được chọn an táng Đại tướng đã xây dựng các tháp thiết kế như kiểu tháp chuông ở các khu tưởng niệm, có một quả chuông bằng đồng, một căn nhà kiểu văn phòng, rộng chừng 50m2 xây lên từ vài năm trước. Bên trong hàng rào là vài con đường đất sỏi và từ trước tới nay chưa có hoạt động gì, nên người dân địa phương không biết để làm gì. Đường từ Quốc lộ 1 vào địa điểm này hiện là đang được tích cực thi công và sẽ hoàn thành trước ngày 12-10-2013.

Nơi an táng Đại tướng Võ Nguyên Giáp nằm ở độ cao 110m lưng núi Vũng Chùa. Huyệt đất quay về hướng Nam. Về phía Bắc núi Vũng Chùa dựa vào dãy núi lớn cao trên 700m. Phía Tây, núi Sú kéo dài như một tay ngai, cao 136m, phía đông, như con hổ lớn ở vị trí Bạch Hổ, dãy Mũi Rồng như một cánh tay dài như một con rồng lớn chạy ra biển ở vị trí Thanh Long. Từ trên huyệt mộ nhìn xuống sẽ thấu cả một vùng biển rộng, có dòng hải lưu chảy từ hướng Tây sang phía Mũi Rồng. Qua khoảng biển rộng khoảng 400m là đảo Yến, gồm hai ngọn như chiếc bình phong chắn gió ở vị trí Chu Tước.

Mảnh đất dự kiến để chôn cất Đại tướng có hình vuông, cân đối, hơi phình như một gò nhỏ, hướng về phía Nam theo câu: “Thánh nhân Nam diện nhi thính thiên hạ”. Đó chính là thế đất “Yến sào” có chỗ dựa Huyền Vũ là đỉnh cao trên 400m về phía Bắc.

Mạch khí chảy nghìn dặm từ Trường Sơn xuống dẫn mạch khí từ nghìn dặm Bắc về đến đây, gặp biển tụ lại, Biển mênh mông như một hồ lớn, nhưng trước huyệt đất lại có hải lưu dẫn khí lưu thông mà không tán. Sinh mà tụ là thế đất tuyệt vời này. Phía bên trái, theo cổ truyền là bên tả, dãy núi mũi rồng chảy ra biển, vừa xuôi xuống biển tạo ra một vòng cung chắn khí tản đông mà còn chắn gió đông, không để gió, tức phong, thổi vào huyệt mộ. Đó chính là hình tượng con rồng xanh hầu bên tả. Phía bên phải, hướng Tây núi Sú sừng sững như một con hổ chầu, che những cơn gió thổi vào huyệt đất. Đó chính là Bạch Hổ trừ mọi tai ương.

Phía nam là biển rộng, đóng vai trò minh đường tụ thủy, mạch hải lưu nhẹ cấp thêm sinh khí cho huyệt mộ. Phía xa một chút Đảo Yến như bình phong lớn làm ấm huyệt mộ. Theo người dân địa phương, đất trên núi vốn là đất núi lửa có màu đỏ hồng nhẹ, vùng mưa đều đất ẩm, cây cối xanh tươi quanh năm. Đây đúng là đất “Thái cực biên huân”, hợp với thế đất. Thêm nữa không phải bây giờ mà ngay từ ngàn xưa vùng Vũng Chùa - Đảo Yến đã là nơi chim yến tụ hội ríu rít quanh năm, đúng là đất lành chim đậu,“chim tụ hội thành đàn” đông vui, ríu rít, là đất “tụ khí tàng phong”.

Tổng hợp lại, nơi chôn cất Đại tướng Võ Nguyên Giáp là huyệt đại cát, ứng vào câu “tất phát khoa giáp, định rất phát đinh tài lưỡng vượng, phú quý miên trường, mọi người đều kính phục”. Với những chiến công vì dân vì nước, huyệt mộ đại cát, Đại tướng sẽ là một thiên tướng trấn giữ phía Đông ngăn trừ mọi ma quỷ âm mưu xâm lấn làm hại dân Việt, công đức kéo dài vạn vạn năm.

THUYẾT MINH THÊM VỀ VŨNG CHÙA ĐẢO YẾN
'Núi Rồng' hay 'Vũng Chùa' trở thành những cái tên khiến nhiều người thắc mắc về một địa danh. Ngọn núi Đại tướng sẽ yên giấc ngàn thu có tên chính thức là núi U Voi bởi nhìn trong cả dải núi chạy dài, ngọn núi này có dáng dấp của phần u của một con voi.

Núi U Voi nằm trong dải núi Rồng. Sở dĩ có cái tên núi Rồng là bởi phần đầu của dải núi vô tình có 2 chiếc hang được ví tựa mắt của con rồng. Đây là 2 chiếc hang khá lớn, có vòm hang rộng từ 7 -10m, sâu chừng 30m. Hang không có những nhũ đá mà khá phẳng phiu, người dân vùng biển này vẫn thường vào đây để tham quan thưởng ngoạn.

Dải núi Rồng gồm nhiều ngọn núi thấp uốn lượn quanh eo biển. Phía trước dãy núi này là đảo Yến và bãi biển Vũng Chùa, xa xa là cảng Hòn La tạo thành một quần thể khá hữu tình. Nếu nhìn cả dãy núi này thì vị trí an táng của Đại tướng nằm ở cổ rồng.

Còn tên gọi vũng Chùa do vùng biển nơi đây yên bình như 'vũng', từ hàng trăm năm trước có một ngôi chùa rất linh thiêng nhưng qua bao bể dâu nay chỉ còn nền móng. Đảo Yến tên gốc là Hòn Nồm, gọi theo hướng gió. Sau này người dân gọi là đảo Yến bởi trên đảo có nhiều chim yến về đây làm tổ. Đảo Yến rộng khoảng 10ha cách bờ khoảng 1km, vẻ đẹp hoang sơ, như bức bình phong nổi lên giữa biển.

Trên đảo không có dân ở, chỉ có vài công nhân từ Nha Trang ra đây dựng trại để khai thác yến. Núi Thọ nối liền núi Sú tiếp nối mũi Rồng tạo thành một cánh cung vững chãi đâm ra biển Đông, che chắn gió đông bắc; dưới chân là bãi biển cát trắng vàng trải dài tít tắp, cây cối xanh tươi.

Đảo Yến cũng từng có thời gian được gọi là 'đảo Chùa' vì có ngôi chùa cổ. Ngày nay, cái tên 'đảo Yến' được dùng nhiều hơn cả bởi nơi này giờ được một đơn vị nuôi chim yến khai thác khá hiệu quả.

Vũng Chùa - đảo Yến nằm dưới chân dãy Hoành Sơn, cách đèo Ngang khoảng 10km về hướng đông nam. Từ trên đỉnh Thọ Sơn phóng tầm mắt về hướng biển là khung cảnh non nước hữu tình, biển nước mây trời bình yên và khoáng đạt.

Vũng Chùa được bao bọc bởi ba đảo là Hòn La, Hòn Gió và Hòn Nồm (đảo Yến) nên nơi đây rất kín gió. Những ngày gió bão tàu thuyền thường về đây trú ẩn.

Vũng Chùa là một trong những thắng cảnh đẹp nằm trong vịnh Hòn La mà theo sách Đại Nam dư địa chí ước biên của nhà văn hóa Cao Xuân Dục thời nhà Nguyễn gọi là vịnh La Sơn. Vịnh La Sơn được bao bọc bởi những ngọn núi vững chãi như bức tường thành, phía đất liền là dãy Hoành Sơn “thế như rồng cuốn hổ ngồi, trùng trùng điệp điệp lan ra tận biển” với đỉnh mũi Rồng che chắn phía Tây - Bắc, ở phía đông có nhiều đảo nhỏ.

Vùng biển Hòn La nổi tiếng với những sản vật dùng để cung tiến triều đình. Theo sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, đặc sản nơi đây ngoài yến sào, sò huyết, tôm hùm còn có loài 'cửu khổng quyết minh' hay còn gọi là bào ngư, là những sản vật thường mang đi cung tiến triều đình. Vùng đất này được người dân nơi đây coi là linh thiêng bởi tương truyền năm xưa vua Lê Thánh Tông xuất thủy quân đánh Chiêm Thành đã dừng lại nơi đây lập đàn thần linh phù hộ. Khi chiến thắng trở về, nhà vua về đây lập đàn tạ ơn đất trời.

Người dân vẫn cho rằng xã Quảng Đông là một vùng đất linh thiêng bởi hiếm có nơi nào mà trong một xã có đến mấy chục ngôi miếu, đền và am thờ. Cứ đi vài trăm mét lại có một nơi để thờ cúng.

Ngày xưa, trên dãy núi Rồng cũng có 2 ngôi miếu được đặt ở phần 'đầu rồng' và 'đuôi rồng'. Tiếc rằng, trong những năm tháng chiến tranh, máy bay địch rải thảm bom qua nơi này đã khiến 2 ngôi miếu bị sập hoàn toàn.

Giờ đây, người dân ở xã Quảng Đông vẫn còn bất ngờ khi Đại tướng về yên nghỉ tại Vũng Chùa. Theo nhiều người địa phương thì khu vực Đại tướng được chọn để an táng đã được xây dựng một số hạng mục cách đây gần chục năm. Cụ thể tại đây có một căn nhà sàn, một ngôi nhà 2 tầng diện tích lớn và một miếu thờ đã được xây dựng hoàn tất.

Vùng đất nơi an táng Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Vũng Chùa - đảo Yến (xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình) có vị trí rất đẹp. Phía đông nam Vũng Chùa là biển Đông với đảo Yến như tấm bình phong giữa biển trời che trước mặt.

Phía tây bắc là núi Mũi Rồng như tấm lưng vững chãi của non sông Việt Nam mà Đại tướng đã suốt một đời góp công gìn giữ.

Vũng Chùa là một vũng biển nhỏ, có bờ cát trắng bằng phẳng rất tốt để làm bãi tắm. Ở đây có một triền núi nhô ra biển nên người dân địa phương gọi là Mũi Rồng.

Phía nam Mũi Rồng là biển, phía bắc là đất liền. Đảo Yến gồm hai đảo nhỏ dính liền nhau, có diện tích hơn 10 ha, nằm cách bờ biển Vũng Chùa 2km, trên đảo có nhiều hang hốc nên chim yến vẫn tìm về làm tổ.

Vũng Chùa - đảo Yến cách đèo Ngang về phía nam gần 10km. Đứng ở đầu chót đèo Ngang nhìn về phía nam có thể thấy rõ cảnh sắc của vùng biển ở Mũi Rồng. Đèo Ngang, Vũng Chùa tạo nên một quần thể non nước rất hữu tình, với núi vươn ra tận biển, sông và đường uốn lượn dưới chân đèo và biển luôn thấp thoáng những con thuyền...

19/04/2025

Tư Liệu Dành Cho HDV
"Năm nay du lịch mở cửa em trường sẽ kể về Bác nhiều hơn cho quý khách nghe ạ "
Mỗi lần em Trường Guide kể chuyện về Bác cho khách nghe là mỗi lần lại nhìn thấy những giọt nước mắt chảy xuống của khách ,và cứ như thế luôn luôn có câu ???? Chúng con cảm ơn vị lãnh tụ của đất nước và gd bác

GIA ĐÌNH BÁC SỐNG MÃI TRƯỜNG TỒN CÙNG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM.

️Trong lịch sử, hiếm có một gia đình Việt Nam nào như gia đình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến thế hệ của Bác, Bác không có vợ, không có con. Chị của Bác, bà Nguyễn Thị Thanh cũng không có gia đình...Lịch sử ghi nhận, sau Cách mạng Tháng Tám, bà Thanh và ông Khiêm ra thăm Bác, sau đó về quê, tham gia các tổ chức kháng chiến chống Pháp và làm ăn nuôi nhau. Ông Khiêm mất 1950, bà Thanh mất 1954.

️Cha Bác, ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh ra trong một gia đình phú nông đã phá sản ở làng Kim Liên, xã Chung Cự , tổng Lâm Thịnh, tỉnh Nghệ An. Mới 3 tuổi, ông đã mồ côi cha, lên 4 tuổi mồ côi mẹ, phải ở cùng vợ chồng người anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Sinh Trợ, và phải lao động, chăn trâu, cắt cỏ như bao đứa trẻ cùng trang lứa ở quê. Do tư chất thông minh, ham học, ông được cụ tú Hoàng Xuân Đường xin đưa về nuôi dạy. Ông Sắc đến ở nhà cụ tú Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù (làng Chùa) xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, được chăm lo cho việc học hành. Vợ chồng cụ Tú Đường không có con trai, chỉ có hai người con gái là Hoàng Thị Loan và Hoàng Thị An, nên vợ chồng ông Tú rất quý mến cậu Sắc và đã quyết định chọn cậu làm con rể. Năm 1881, cậu Sắc 18 tuổi kết hôn với con gái đầu lòng của cụ Tú là Hoàng Thị Loan 13 tuổi. Ba năm sau, năm Hoàng Thị Loan 16 tuổi, sinh cô con gái đầu lòng, chị Bác, Nguyễn Thị Thanh. Bốn năm sau sinh anh của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, và hai năm sau đó sinh Bác, Nguyễn Sinh Cung. Cũng như những thanh niên trí thức lúc đó, ông Sắc tham gia các kỳ thi của triều đình, năm 1894 (sau khi cụ Tú Đường mất 1893) ông thi đậu cử nhân tại kỳ thi Hương, trường thi Nghệ An. 1895 ông thi Hội ở triều đình, nhưng không đỗ. Đến 1901 sau khi vợ mất, ông thi đậu Phó bảng. Không ra làm quan ngay, trở về quê dạy học, ông sống trong sạch và cương trực. Mãi đến tháng 5-1906, ông mới vào Huế nhậm chức Thừa biện bộ Lễ. Tháng 5-1909 ông được bổ làm tri huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Tại đây, căm ghét bọn tham quan, ô lại, ông thường thăm thú dân chúng, rồi những người tù bị bắt do oan khuất, do đấu tranh chống sưu, thuế nặng nề được thả. Bọn cường hào, ác bá ở Bình Khê đã tìm cách kiện ông ra triều đình. Ông bị triệu về triều, bị Hội đồng Nhiếp chính xử 100 trượng, giáng 4 cấp và bị triệt hồi. Không về quê, ông đi về Nam, vừa đi vừa bốc thuốc Nam chữa bệnh cho dân. Ông mất ngày 27-11-1929 tại Cao Lãnh (Đồng Tháp ngày nay).

️Mẹ Bác, bà Hoàng Thị Loan là con cụ tú Hoàng Xuân Đường và cụ bà Nguyễn Thị Kép. Được học hành và được dạy dỗ trong gia đình nho học, bà là một điển hình của người phụ nữ thời đó, hết lòng hết sức lo sự nghiệp của chồng và con cái. Ông Sắc vào Huế học và thi cử lận đận. Bà và các con trai cũng vào, vừa dệt vải vừa chăm lo cho chồng cho con. Thuở thiếu thời, trong lời ru của mẹ, tình yêu quê hương đất nước đã được thấm đậm, in sâu trong lòng anh chị em Bác. Những tình cảm ấy được nhân lên, khắc ghi trong lòng Bác kính yêu suốt cả cuộc đời mình.

️Năm 1901, bà Loan lâm bệnh nặng và qua đời. Phần mộ của bà sau này được bà Thanh và ông Khiêm mang từ Huế về đặt trên sườn núi Động Tranh, một trong những ngọn núi của dãy Đại Huệ thuộc địa phận xã Nam Giang, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.

️Khi cha vào kinh thành nhậm chức, bà Thanh ở nhà tham gia phong trào yêu nước chống Pháp ở Nghệ An và miền Trung. Bị giặc bắt, chịu án phạt 100 trượng, tù khổ sai 9 năm, đày cách quê hương 3000 dặm. Bà là người phụ nữ cách mạng, kiên quyết, có nhan sắc mặn mòi, nhưng cũng không có chồng, con. Thời trẻ, nhiều đám mai mối, có cả những đám con của gia đình gia thế, đến những đám của những người đồng niên ở quê.

️Nhà văn Sơn Tùng, thương binh 1/4, người có nhiều tác phẩm rất hay và chi tiết về Bác và gia đình Bác, người đã từng gặp và trò chuyện với chị Thanh, anh Khiêm và với cả người yêu của Bác Hồ là Lê Thị Huệ kể lại, nhà văn có lần hỏi bà Thanh: vì sao cô không xây dựng gia đình? Bà Thanh trầm tư u uẩn, nhìn vào cõi xa xăm như không muốn nói, nhưng như nuốt những đau đớn vào trong, bà kể rằng: khi bị bắt, chúng khám thấy trong người và dưới vạt giường nằm của bà có giấu súng, chúng còn biết bà là con gái của Nguyễn Sinh Sắc, chị gái của Nguyễn Ái Quốc - người vừa gây tiếng vang lớn trên diễn đàn các nguyên thủ quốc gia ở Vécsai nước Pháp, chúng rất tức tối. Mọi ngón đòn tra tấn, đánh đập, bà chỉ nhận về mình, không khai bất kỳ chi tiết nào liên quan đến đồng chí mình. Một hôm để khuất phục bà, bắt bà phải khai, chúng dùng một chiếc mâm đồng, đặt lên lò than nung đỏ rực, lột trần bà ra, rồi đẩy bà ngồi bệt vào chiếc mâm nóng đỏ đó. Thịt da cháy xèo xèo, đến xương tủy, bà ngất đi. Sau đó nhiều tháng, nhờ sự thương cảm của các bạn tù, bà tự chữa bệnh bằng một số thứ thuốc nam kiếm được, vết thương lành, nhưng toàn bộ phần thịt cháy nham nhở, lồi lõm và luôn luôn tấy đỏ, đau đớn, mặc cảm hằng ngày. Bà không nghĩ đến việc lấy chồng. Những năm kháng chiến chống Pháp, bà tham gia Hội mẹ chiến sĩ ở quê, bốc thuốc nam chữa bệnh cứu người cho đến lúc đi xa.

️Anh trai của Bác, Nguyễn Sinh Khiêm, tự Tất Đạt. Năm 1908, hai anh em Bác tham gia phong trào chống thuế của nhân dân Trung Kỳ, sau đó bị trường Quốc học Huế buộc thôi học; Cậu Thành đi về Nam, mưu cứu nước, cha bị đày đi làm tri huyện Bình Khê, ông Khiêm về quê, cùng chị hoạt động trong phong trào yêu nước chống Pháp của đội Quyên, ấp Võ. Năm 1914, ông Khiêm bị giặc Pháp bắt, bị chúng xử 9 năm khổ sai, đày vào tận Nha Trang. Mãi đến năm 1920, giặc Pháp mới đưa ông về giam lỏng ở Huế. Tiếp theo là những ngày gặp lại chị gái. Hai chị em tham gia các phong trào cứu nước ở quê cho đến lúc ra đi.

Nguyễn Sinh Nhuận (1900–1901), hay tên khai sinh là Nguyễn Sinh Xin, là con trai út trong gia đình, sau khi sinh ra, bà Hoàng Thị Loan bệnh nặng và qua đời. Nguyễn Sinh Xin được gửi về quê ngoại Hoàng Trù để chăm sóc nhưng vì ốm yếu nên đã qua đời mấy tháng sau đó. Do mất sớm nên tên tuổi của Nguyễn Sinh Xin không được nhắc đến nhiều như 3 anh chị khác trong gia đình.

Giữa rừng già Việt Bắc, trong một đêm đông lạnh giá, ngồi bên đống lửa, các đồng chí trong Thường vụ Trung ương Đảng chân tình hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại sao chủ tịch không lấy vợ, không lập gia đình. Chủ tịch cười ôn tồn và nói rằng: lúc còn trẻ mải mê đi làm nhiệm vụ, không có điều kiện lập gia đình, bây giờ già rồi không còn nhu cầu ấy nữa.

️Như vậy, Bác cũng như chúng ta, là con người bình thường, ai cũng khát vọng yêu thương, ai cũng mong muốn có một mái ấm gia đình. Nhưng Người đã trở nên vĩ đại bởi vì đã vượt lên trên cái bình thường của chính mình với mục đích đem lại cái bình thường và hạnh phúc cho nhân dân, cho các thế hệ mai sau.

️Cả gia đình Bác đã hy sinh cho nhân dân, cho đất nước. Mỗi gia đình Việt Nam như có Bác, có hình Bác. Trong trái tim trẻ thơ, tất cả các thiếu nhi Việt Nam đều có Bác. Cả dân tộc đi theo con đường Người chọn, học tập và làm theo lời Người dạy. Gia đình của Người, sống mãi trường tồn cùng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

Address

Yên Bệ , Kim Chung
Hoài Đức
10000

Telephone

+84977710894

Website

Alerts

Be the first to know and let us send you an email when Tư Liệu Dành Cho HDV posts news and promotions. Your email address will not be used for any other purpose, and you can unsubscribe at any time.

Contact The Business

Send a message to Tư Liệu Dành Cho HDV:

Share