10/06/2025
KHIÊM LĂNG - LĂNG VUA TỰ ĐỨC
Khiêm Lăng là nơi an nghỉ của Hoàng đế Tự Đức, vị Hoàng đế thứ 4 của triều Nguyễn. Tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm.
Lăng vua Tự Đức ban đầu được gọi là Khiêm Cung, sau khi vua băng hà sẽ đổi thành Khiêm Lăng. Tên gọi "Khiêm" có ý nghĩa là kính, nhường, khiêm tốn, đồng thời cũng dựa trên quẻ "Địa Sơn Khiêm" trong Kinh Dịch. Vua Tự Đức tự mình giải thích ý nghĩa này trong bài văn bia "Khiêm Cung Ký".
-Vị trí và Phong thủy:
Khiêm Lăng tọa lạc tại một thung lũng hẹp, một nơi có đủ cả đất bằng, núi và khe.
Vua Tự Đức đã chọn đất để xây dựng lăng dựa trên ý chỉ của mình, với sự sắp xếp, bố trí công trình hòa quyện vào phong cảnh thiên nhiên.
Trong thuật phong thủy, lăng mộ quay về hướng Đông - Nam, xa xa phía trước là núi Dẫn Khiêm, Long Khiêm làm "tiền án".
Dưới chân núi là khe nước chảy từ hướng chùa Từ Hiếu qua làm yếu tố "minh đường".
Ngay trước mặt có hồ Lưu Khiêm uốn thành hình bán nguyệt, bên kia hồ là một đồi đất nhỏ trồng thông để ngăn gió thổi vào phía mộ nhà vua.
Chếch về bên trái trước mặt lăng là Đạo Khiêm sơn (tượng trưng "Tả Thanh long"), và đối xứng ngọn đồi bên phải có tên Lao Khiêm sơn (tượng trưng "Hữu Bạch hổ"). Đây chính là các yếu tố "tiền án" và "rồng chầu hổ phục" trong thuật phong thủy, che chắn và chầu về phía trước cho cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ.
Núi Ngự Phụng (tên địa phương gọi là núi Đồôn Sầm) và núi Khiêm Sơn là hai ngọn núi làm "hậu chẩm" (bảo vệ phía sau) của lăng vua Tự Đức.
- Cấu trúc tổng thể:
Tổng thể lăng vua Tự Đức được bố trí thành hai khu riêng biệt: khu Tẩm điện và khu Lăng mộ, hai khu vực này được ngăn cách bởi một bức tường cao.
1. Khu Tẩm điện:
Đây là khu vực có quy mô khá lớn, là nơi vua Tự Đức sinh hoạt, nghỉ ngơi và làm việc khi còn sống, và sau này là nơi thờ phụng.
Chính giữa mặt tường phía trước khu Tẩm điện là Khiêm Cung Môn. Đây là công trình bằng gỗ xây theo kiểu cổ lâu 2 tầng. Tầng dưới có 3 gian ứng với 3 lối đi, tầng trên là tháp canh 1 gian. Trên cửa có treo bức hoành phi sơn son, thếp vàng đề tên công trình "Khiêm Cung Môn".
Bước qua cửa Khiêm Cung Môn là một sân gạch rộng, giữa có đường thần đạo lát bằng đá Thanh. Trên sân có đặt một đỉnh đồng hình chữ nhật dùng cho mục đích cúng tế và bốn thống bằng đồng đúc dưới thời vua Minh Mạng cùng các chậu cảnh bằng sứ men lam.
Hai bên sân có hai tòa nhà Lễ Khiêm Vu và Pháp Khiêm Vu. Đây là hai công trình xây đơn giản 3 gian, dùng làm nơi chuẩn bị triều phục, tấu chương cho các quan khi theo vua lên lăng, và nơi đặt các bàn thờ.
Nằm ở vị trí chính giữa khu Tẩm điện là Hòa Khiêm Điện. Đây là tòa nhà quan trọng nhất ở khu vực này, được xây theo kiểu "nhà kép", "trùng lương trùng thiềm". Nội thất trang trí tinh xảo, nền lát gạch Bát Tràng tráng men vàng, xanh. Mái lợp ngói âm dương tráng men vàng, trang trí nhiều họa tiết cung đình như "Dơi hàm Thọ", bầu rượu, mặt trời, rồng pháp lam. Gian giữa chính điện đặt khám thờ bài vị của vua Tự Đức và Lệ Thiên Anh Hoàng hậu.
Sau điện Hòa Khiêm là Lương Khiêm Điện. Đây là nơi vua Tự Đức nghỉ ngơi, sau này dùng để thờ vọng mẹ vua là bà Thái hậu Từ Dũ. Cấu trúc là "nhà kép" 5 gian 2 chái, khung gỗ nội thất sơn đen bóng, các khám thờ, án thờ sơn son thếp vàng.
Hai bên điện Lương Khiêm là Minh Khiêm Đường và Ôn Khiêm Điện.
Minh Khiêm Đường là nhà hát, được xây theo lối "phương đình". Đây là nơi vua ngồi ngắm cảnh và làm thơ, cũng là nơi vua tiêu khiển và xem hát. Kiến trúc và trang trí tinh xảo, đặc biệt là trần nhà trang trí hình ảnh bầu trời đêm với mặt trời, mặt trăng, mây ngũ sắc, vì tinh tú bằng gương. Nó phản ánh tâm hồn lãng mạn thi sĩ của vua Tự Đức.
Ôn Khiêm Đường là nơi cất giữ đồ ngự dụng của vua, sau này bà Lệ Thiên Anh Hoàng hậu ở tại đây.
Khu vực này còn có Chí Khiêm Đường và bốn viện khác (Tòng Khiêm Viện, Dụng Khiêm Viện, Y Khiêm Viện, Trì Khiêm Viện) dành cho các phi tần của vua.
Ích Khiêm Các là nơi nhà vua ngắm cảnh, nhưng hiện đã bị sụp đổ.
Các yếu tố cảnh quan như Hồ Lưu Khiêm, Đảo Tịnh Khiêm (giả sơn lớn giữa hồ), Dũ Khiêm Tạ, Xung Khiêm Tạ (nhà thủy tạ bên hồ) góp phần tạo nên vẻ đẹp lãng mạn, trữ tình của Khiêm Lăng.
2. Khu vực Lăng mộ:
Khu vực này là nơi an táng thi hài của vua Tự Đức.
Cuối sân Bái Đình (ở khu Tẩm điện) là cái bến để xuống hồ Dài.
Nhà Bi Đình nằm trong khu vực lăng mộ. Bi Đình được xây bằng gạch trát vữa, bốn mặt trổ cửa vòm, trụ tròn trang trí hình mây tản và rồng cuộn. Mái lợp ngói ống tráng men vàng. Bên trong đặt tấm bia đá lớn gọi là "Ngự chế Thánh Đức Thần Công bi ký", tuy nhiên, tấm bia tại đây là bài "Khiêm Cung Ký" do chính vua Tự Đức tự soạn. Nội dung bài "Minh" (tức "Khiêm Cung Ký") gồm 5 phần, bày tỏ quan niệm nhân sinh, biến cố đất nước, lý do chọn địa điểm lăng, nhận xét bản thân và lời tự nhận tội lỗi.
Ngay phía trước Bửu Thành là tầng sân có nền của ngôi nhà Hoàng ốc (nhà phủ vải vàng dùng cho cúng tế).
Cổng vào Bửu Thành được xây bằng gạch, trổ cửa vòm, trang trí hình kỷ hà, ngũ phúc và rồng. Cửa bằng đồng được khóa cẩn thận.
Bửu Thành là vòng thành hình tròn xây quanh quả đồi nơi chôn cất vua. Nó gồm hai lớp tường thành.
Huyền Cung là nơi an táng thi hài của vua Tự Đức, nằm sâu trong quả đồi. Linh cữu được đưa vào theo toại đạo (đường hầm) qua ba lớp cửa đá.
-Các lăng mộ khác trong quần thể Khiêm Lăng:
Trong khu vực Khiêm Lăng còn xây thêm:
+Lăng vua Kiến Phúc (là con nuôi của vua Tự Đức), gọi là Bồi Lăng.
+Lăng của bà Lệ Thiên Anh Hoàng hậu (vợ vua Tự Đức), gọi là Khiêm Thọ Lăng. Khu vực này vốn là nơi vua Tự Đức dùng để tập bắn, đọc sách, ngắm cảnh. Việc xây dựng lăng bà Lệ Thiên Anh Hoàng hậu và vua Kiến Phúc tại đây là do bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội lúc bấy giờ, không phải là yếu tố hình thành nên chỉnh thể không gian vườn cảnh nguyên thủy của lăng vua Tự Đức. Khiêm Thọ Lăng có cấu trúc gồm tầng sân và Bửu thành, nổi bật với trang trí gạch hoa đúc rỗng và sành sứ.
Giá trị Kiến trúc - Mỹ thuật:
Lăng vua Tự Đức là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến trúc và cảnh quan.
Công trình phản ánh tâm hồn uyên thâm, lãng mạn của vua Tự Đức, một nhà văn, nhà thơ.
Các nhà kiến trúc đã dựa theo ý chỉ của vua, sắp xếp công trình hòa quyện vào thiên nhiên một cách tài tình.
Lăng được miêu tả là "đẹp và lãng mạn như một bài thơ".
Kiến trúc thể hiện sự sáng tạo và trình độ xây dựng cao của người Việt Nam thời kỳ này.
Khiêm Lăng không chỉ là một di tích lăng tẩm đơn thuần mà còn là một công trình kiến trúc cảnh quan độc đáo, phản ánh sâu sắc tính cách và cuộc đời của vị vua thi sĩ Tự Đức.
Ảnh: Anh Nguyễn T.A Phong
Bài: Khám Phá Di Sản